Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam – VBF 2015, khi nói về Thông tư 36 của NHNN (Quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động của các Tổ chức tín dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, có hiệu lực từ 1/2/2015), Nhóm công tác ngân hàng đã đánh giá cao mục đích của NHNN về quy định các tỷ lệ giới hạn nguồn vốn ngắn hạn được dử dụng để cho vay dài hạn.
Tuy nhiên, Nhóm công tác cho rằng Điều 17 quy định tại Thông tư 36 không phù hợp với hiệp ước Basel II và III, theo đó, yêu cầu các NH có thể nắm giữ một lượng lớn TPCP nhiều nhất có thể.
Thêm nữa, các NH có lẽ là bên mua TPCP (nếu không muốn nói là duy nhất) và quy định này có thể sẽ tác động tiêu cực đến kế hoạch của Chính phủ trong việc huy động vốn để giảm thâm hụt ngân sách trong năm tới.
“Ngân hàng luôn sử dụng TPCP để xin NHNN tái cấp vốn. Chúng tôi hiểu rằng, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay dài hạn có mục đích chính là xử lý nguồn vốn dài hạn để cho vay trung và dài hạn cũng như đầu tư tư dài hạn vào TPCP” – Nhóm công tác nói.
Hơn nữa, nếu TPCP là tài sản có thanh khoản và NH nước ngoài có quy trình nghiệp vụ từ thị trường đến thị trường phù hợp, để thực hiện hoạt động mua bán TP làm thế nào các NH có thể sử dụng nguồn vốn dài hạn để mua trái phiếu và có thể bị bán bất kỳ lúc nào? NH phải làm gì với nguồn vốn dài hạn nếu trạng thái trái phiếu bằng 0?
Về mặt quản lý thanh khoản, đây là cách làm thiếu an toàn, không hiệu quả đối với NH. Ngay cả khi NHNN quan tâm đến vấn đề thanh khoản TP thì cũng cần phải có một tỷ lệ riêng cho từng kỳ hạn TP. Ví dụ, kỳ hạn huy động là 8 tháng nhưng không thể sử dụng 100% vốn của kỳ hạn 8 tháng để huy động TP.
Ngoài ra, Nhóm công tác cũng đề nghị NHNN cho biết lý do, phải có một tỷ lệ mới cho Chi nhánh NH nước ngoài và chi nhánh NHTM trong nước? Và vì sao hệ số này chỉ là 15% đối với NH nước ngoài trong khi cần bảo đảm bảo nguyên tắc đối xử công bằng để khuyến khích mọi thành phần thị trường, đặc biệt khi các chi nhánh nước ngoài đang tham gia góp phần phát triển thị trường nợ của VN.