
Toạ đàm FTA cơ hội nào cho các doanh nghiệp Việt
Tại toạ đàm FTA-Cơ hội nào cho doanh nghiệp Việt, ông Lê Tiến Trường,Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Việt Nam, kiêm Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam đã có những chia sẻ toàn diện về ngành dệt may khi hội nhập.
Theo đánh giá của ông vì sao Việt Nam lại chọn hội nhập sâu rộng trong giai đoạn nền kinh tế vẫn còn chưa khởi sắc? Đứng trên góc độ ngành dệt may ông có tán thành việc hội nhập không?
Ông Lê Tiến Trường:Chúng tôi quan tâm là các FTA có mở thêm thị trường hay không, và bản chất tất cả các FTA để mở cửa cho hàng hoá đi ra. Tất nhiên có đi ra thì có đi vào, nhưng quốc gia đang phát triển như Việt Nam thì việc xuất khẩu là rất quan trọng
Sau 1 thời gian giam gia WTO, về mặt nào đó động lực tăng trưởng mới không còn nhiều, động lực tạo việc làm mới, công nghiệp hóa không còn nhiều, chính các FTA mới tạo ra động lực mới, tạo ra sự tăng trưởng,
Từ góc độ Hiệp hội và DN, chúng tôi đều tán thành việc hội nhập. Còn đương nhiên, ngành dệt may có đến 6000-7000 DN (cả DN FDI, DN tư nhân, DN cổ phần của Nhà nước) không phải ai cũng thành công.
Cuộc chiến này chắc chắn sẽ có người thất bại vì đó là quy luật của thị trường. Đó cũng là quy luật để DN của Việt Nam ngày càng chất lượng hơn so với việc đóng cửa để tồn tại, đều sống nhưng với thể trạng èo ọt.
Thưa ông, các ích lợi và phí tổn của FTA tác động tới nền kinh tế đã rõ. Vậy ông đánh giá như thế nào về lợi ích và phí tổn mà các FTA sẽ mang đến cho các doanh nghiệp dệt may?
Ông Lê Tiến Trường:Lợi ích khi có FTA là lợi ích tiềm năng, không phải có ngay lập tức, cứ ký được xong là mai anh sẽ có quà.
Đối với chúng tôi, thực trạng của sản xuất Việt Nam không chỉ riêng dệt may, đại đa số các ngành xuất khẩu hàm lượng giá trị gia tăng trong nước còn thấp, hay nói cách khác là ta ở khâu giá trị thấp và dễ bị thay thế.
Với các FTA mới thì các quy tắc xuất xứ đều theo định hướng là gia tăng giá trị tại Việt Nam trong khu vực các nước có FTA. Tức là có yêu cầu rất cao trong việc các DN đạt được lợi ích chỉ khi họ gia nhập hoàn chỉnh chuỗi cung ứng toàn cầu.
Đây là chi phí DN phải bỏ ra, ở góc độ vĩ mô gọi là chi phí điều chỉnh cơ cấu, với chúng tôi là chi phí điều chỉnh từ gia công ở khâu đơn giản sang kết nối làm nguyên liệu, kết nối làm thiết kế,...
Chi phí tất cả đều phải bỏ ra nhưng không phải ai cũng thành công, sẽ có người thất bại nhưng đó là quá trình sàng lọc, điều chỉnh để có một hệ thống các DN, các ngành kinh tế của Việt Nam nhưng nằm trong chuỗi cung ứng toàn cầu với vị trí vững chắc hơn.
Nhiều người cho rằng chuỗi cung ứng toàn cầu rất chặt chẽ và đi sau thì rất khó xâm nhập vào. Ông nhận định như thế nào về việc này?
Ông Lê Tiến Trường:Chuỗi cung ứng toàn cầu cũng là một chuỗi cung ứng linh hoạt, tuy có cam kết chặt chẽ giữa các đối tác nhưng nó linh hoạt ở chỗ dịch chuyển địa điểm các đối tác đó.
Đó là câu chuyện của Samsung dịch chuyển vào Việt Nam thì chuỗi cung ứng toàn cầu của dệt may cũng sẽ dịch chuyển như vậy. Khi đó người ta sẽ nhận ra rằng dệt may của Việt Nam sẽ tốt hơn dệt may của Trung Quốc trên thị trường Mỹ.
Trước khi có WTO, thị phần ở Mỹ của Việt Nam là dưới 3% và giờ là 10%, đứng thứ 2 sau Trung Quốc, thị phần này lấy phần lớn của TQ. Điều này để thấy rằng khi có điều kiện thuận lợi sẽ là tác nhân cho quá trình dịch chuyển chuỗi chảy vào Việt Nam.
Chuỗi cung ứng toàn cầu này sự cam kết cao đến đâu cũng chỉ phục vụ lợi ích duy nhất cho lợi nhuận và khả năng tăng trưởng bền vững của chuỗi. Thị trường nào tạo ra lợi nhuận hấp dẫn hơn thì sẽ là nơi chuỗi được xác lập.
Đối với Hiệp hội Dệt may, có một thách thức rất lớn khi rất nhiều nguồn hàng sẽ từ các nước tham gia FTA sẽ xuất sang VN; bên cạnh đó, việc quy định quy tắc xuất xứ rất chặt chẽ với ngành dệt may, tức là hàng dệt may XK của VN phải tuân thủ xuất xứ từ sợi, vải, cắt, may tại các nước TPP sẽ được ngành Dệt may chuẩn bị ra sao?
Ông Lê Tiến Trường: Không phải các thách thức đều đến từ FTA mà thách thức đến từ nội tại của ta. Không có FTA thì vẫn có thách thức như: Năng suất thấp, trình độ công nghệ thấp, sức cạnh tranh không cao... Nên nhiều khi ta cộng dồn tất cả vào và nói đó là thách thức của FTA thì không phải vậy. Để nguyên thế này nền kinh tế của chúng ta cũng không phát triển được do những hạn chế đó.
Do vậy, để tăng sự chủ động của DN thì Nhà nước chỉ làm được một việc là chi phí vận hành DN tại Việt Nam cần cạnh tranh, tức là những chi phí DN phải trả cho dịch vụ công cần cạnh tranh, còn DN cạnh tranh theo cơ chế thị trường thì không cần dạy họ thắng hay thua. Điều này sẽ làm DN bớt thụ động, làm người ta tăng sự chủ động, còn DN sẽ có DN thành công, DN thất bại.
Dệt may cũng vậy, sẽ có những người thành công và cũng sẽ có những người không thể thành công nổi. Trước đây suy nghĩ theo cách cũ, “các anh thành công còn em cứ vừa vừa theo cách cũ em làm”, sự thật là sẽ không còn loại DN vừa vừa được nữa. Người đứng lại sẽ là người rơi vào vào suy thoái, những khó khăn này thì DN sẽ phải nhận thức.
Đối với dệt may, chuẩn bị lớn nhất là về nguyên liệu, còn sự tấn công của hàng hóa nước ngoài vào dệt may Việt Nam thì khác với nông nghiệp vì dù sao dệt may Việt Nam là ngành có năng lực cạnh tranh.
Dệt may Việt Nam không e ngại áp tực từ cạnh tranh với nhóm hàng hóa đi vào, vì chúng tôi đủ năng lực đi ra. Vấn đề là xử lý làm sao để lượng hàng đi ra lớn hơn đi vào để tạo ra thêm việc làm. Đó là những việc dệt may Việt Nam đang chuẩn bị.
Xin cám ơn ông!