Ngân hàng Nhà nước 'dựng rào kỹ thuật' với trái phiếu Chính phủ?

Quy định mới của Ngân hàng Nhà nước có thể sẽ tác động tiêu cực đến kế hoạch phát hành trái phiếu của Chính phủ trong năm tới.

Gần một tháng sau khi ban hành, Thông tư 36/2014/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước (quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài) vẫn còn nhiều quan điểm chưa đồng nhất về một số nội dung.

Được biết, đầu tuần này Ngân hàng Nhà nước và lãnh đạo các ngân hàng thương mại đã ngồi lại để cùng xem xét một số điểm trong thông tư trên. Hiện chưa có thông tin về nội dung cuộc họp ra bên ngoài.

Trong khi đó, là nhà đầu tư nước ngoài, tiếng nói và ý kiến phản biện chính sách "mạnh dạn" hơn, đại diện khối ngân hàng nước ngoài đã có văn bản đề xuất tới Ngân hàng Nhà nước, cũng như công bố tại Diễn đàn Doanh nghiệp 2014 vừa diễn ra tại Hà Nội.

Một nội dung và quan ngại của khối này, qua vai trò đại diện là Nhóm công tác ngân hàng trong khuôn khổ diễn đàn trên, là quy định giới hạn sử dụng vốn để đầu tư trái phiếu Chính phủ.

Cụ thể, Điều 17.6 Thông tư 36 quy định tỷ lệ tối đa so với nguồn vốn ngắn hạn mà chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng thương mại được mua, đầu tư trái phiếu Chính phủ là 15% và 35%.

Theo ý kiến của đại diện nhóm ngân hàng nước ngoài, quy định trên là không phù hợp với Hiệp ước Basel II và III, hiệp ước về các chuẩn mực an toàn mà trong đó yêu cầu các ngân hàng có thể nắm giữ một lượng lớn trái phiếu Chính phủ nhiều nhất có thể.

"Thêm nữa, các ngân hàng có lẽ là bên mua trái phiếu Chính phủ chính (nếu không muốn nói là duy nhất) và quy định này có thể sẽ tác động tiêu cực đến kế hoạch của Chính phủ trong việc huy động vốn để giải thâm hụt ngân sách năm tới", báo cáo của nhóm công tác nêu quan ngại.

Cũng lưu ý rằng, trong năm 2015, Chính phủ dự kiến sẽ tiếp tục huy động một quy mô rất lớn bằng trái phiếu Chính phủ, vào khoảng 450 nghìn tỷ đồng. Kế hoạch này được đánh giá là khó khăn, khi yêu cầu đặt ra là tập trung ở các kỳ hạn dài, từ 5 năm trở lên…

Và với quy định mới trong Thông tư 36 của Ngân hàng Nhà nước, giới hạn đặt ra 15% và 35% như vậy có thể xem là một "hàng rào kỹ thuật" cản bớt vốn từ hệ thống ngân hàng đầu tư vào trái phiếu Chính phủ. Kế hoạch huy động khoảng 450 nghìn tỷ đồng nói trên lại càng thêm khó.

Theo Phụ lục 3, Thông tư 36, trái phiếu Chính phủ là tài sản có tính thanh khoản cao nhất, chỉ sau tiền mặt và được sử dụng để tính toán tỷ lệ khả năng chi trả cho những trường hợp phát sinh theo Điều 15. Thêm nữa, ngân hàng luôn có thể sử dụng trái phiếu Chính phủ để xin Ngân hàng Nhà nước tái cấp vốn.

Với đặc tính trên, đại diện các ngân hàng ngoại lý giải, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng cho vay dài hạn có mục đích chính là xử lý nguồn vốn dài hạn để cho vay trung và dài hạn, cũng như đầu tư dài hạn vào trái phiếu Chính phủ. Đồng thời, nội dung "mua, đầu tư trái phiếu Chính phủ" được hiểu là đầu tư vào trái phiếu Chính phủ với hai điều kiện sau: Các trái phiếu Chính phủ được giữ cho đến khi đáo hạn (Hold Till Maturity Government Bonds ); và kỳ hạn còn lại của trái phiếu Chính phủ phải dài hơn một năm.

"Hơn nữa, chúng tôi hiểu rằng việc mua bán trái phiếu Chính phủ không được giữ đến ngày đáo hạn, tức là những trái phiếu theo Phụ lục 3, Thông tư 36 được hạch toán danh mục đầu tư chứng khoán sẵn sàng để bán (AFS) có kỳ hạn còn lại dưới hoặc bằng một năm trong tổng số lượng trái phiếu đang nắm giữ hay trái phiếu Chính phủ để bán (Government Bonds for Trading) sẽ không thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 17.6", báo cáo của Nhóm công tác ngân hàng viết, cũng như đề nghị Ngân hàng Nhà nước làm rõ nội dung này.

Một điểm khác cũng được đề nghị Ngân hàng Nhà nước làm rõ hơn là tỷ lệ theo Điều 17.6 sẽ được tính sau khi tính toán nguồn vốn trung và dài hạn hay không?

Cùng đó là đề nghị cơ quan ban hành Thông tư 36 xem xét nguồn vốn của các tổ chức tín dụng là nguồn vốn dài hạn. Nguồn vốn này có thể sử dụng để đầu tư vào trái phiếu. Vì vậy, trong tỷ lệ quy định, những trái phiếu được đầu tư bởi vốn dài hạn (sau khi đã trừ đi các khoản mua, đầu tư tài sản cố định và các dạng đầu tư khác) nên được loại trừ khỏi phạm vi điều chỉnh của Điều 17.6.

Đáng chú ý, Nhóm công tác ngân hàng còn đề nghị Ngân hàng Nhà nước cho biết lý do phải có một tỷ lệ mới cho chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng thương mại trong nước.

Họ so sánh: "Chúng tôi muốn biết vì sao hệ số này chỉ là 15% đối với chi nhánh ngân hàng nước ngoài, trong khi cần bảo đảm nguyên tắc đối xử công bằng để khuyến khích mọi thành phần thị trường, đặc biệt khi các chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang tham gia góp phần phát triển thị trường nợ của Việt Nam".

Ngoài ra, cũng như một số ý kiến gần đây, đại diện khối ngân hàng nước ngoài cho rằng, hiệu lực thi hành Thông tư 36 (từ 1/2/2015) là quá gấp để các ngân hàng kịp chuẩn bị tình trạng thanh khoản.

Đặc biệt, vì quá gấp nên có thể gây sốc cho thị trường, do các ngân hàng phải giảm trạng thái trái phiếu trong một thời gian ngắn để bảo đảm chấp hành đúng quy định mới.

"Để Việt Nam phát triển thị trường trái phiếu, cần tránh lặp lại bài học của những năm 2008-2009 khi lãi suất trái phiếu tăng vọt từ 7% lên 21-25%. Vì vậy, kính đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét gia hạn thời hạn hiệu lực thi hành của Thông tư 36", Nhóm công tác ngân hàng khuyến cáo và đề nghị.