Theo Phó Chủ tịch Gene Fang, việc nền kinh tế vĩ mô Việt Nam được cải thiện đã củng cố tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng. Đồng thời, tăng trưởng tiền gửi gần đây đã được cải thiện do sự thúc đẩy từ các chính sách của Chính phủ nhằm vào việc giảm tỷ lệ gửi vàng và ngoại tệ.
Phó Chủ tịch Fang cũng cho biết các ngân hàng đã giảm sự phụ thuộc vào nguồn vốn liên ngân hàng, khiến giảm thiểu những rủi ro thanh khoản của hệ thống, bởi vì việc tỷ lệ vay vốn liên ngân hàng cao có thể hạn chế thanh khoản tại một ngân hàng và ảnh hưởng dây chuyền nhanh chóng sang các ngân hàng khác.
Trong báo cáo tổng quan về hệ thống ngân hàng của Moody, tổ chức này đánh giá hệ thống ngân hàng Việt Nam trên 5 yếu tố: Môi trường hoạt động (được phân loại là ổn định), huy động vốn và thanh khoản (có tiến bộ), chất lượng tài sản và nguồn vốn (không tốt), lợi nhuận và tính hiệu quả (không tốt), hệ thống hỗ trợ (ổn định).
Báo cáo của Moody đã chỉ ra rằng môi trường hoạt động cho các ngân hàng Việt Nam đã bắt đầu ổn định sau một thời gian suy yếu từ năm 2012 vốn gây ra bởi tình trạng tăng trưởng tín dụng quá cao trong nhiều năm. Lạm phát và lãi suất trong nước đã được kiểm soát đáng kể trong 2 năm qua từ mức 2 con số và áp lực lên tỷ giá đã giảm xuống.
Ngoài ra, tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng cao cùng sự thay đổi trong cán cân tài khoản vãng lai (từ thâm hụt lên thặng dư) và việc áp dụng chính sách kinh tế ổn định thay vì tăng trưởng nóng đã góp phần cải thiện tình hình.
Theo báo cáo của Moody, tăng trưởng tín dụng đã chậm lại, mặc dù lãi suất rất thấp, do tăng trưởng xuất khẩu không bù đắp được sự sụt giảm của cầu nội địa. Điều này dẫn đến thanh khoản trong hệ thống ngân hàng được cải thiện, tăng trưởng huy động cao hơn tăng trưởng tín dụng dẫn đến tỷ lệ cho vay/huy động giảm.
Báo cáo của Moody cũng cho rằng với những quy định mới khả năng thanh toán của các ngân hàng sẽ cải thiện, còn với phần lớn những khoản vay có vấn đề sự hồi phục sẽ diễn ra từ từ.
Bên cạnh đó, các khoản dự phòng rủi ro và vốn điều lệ của các ngân hàng có thể sẽ không đủ để đối phó với những thiệt hại tiềm tàng từ những tài sản rủi ro. Hơn nữa, các nguồn huy động vốn còn hạn chế do năng lực huy động vốn của ngân hàng còn yếu, do những ràng buộc về chính sách của chính phủ và những hạn chế đối với nhà đầu tư nước ngoài trong ngành ngân hàng.
Moody’s cũng cho biết lợi nhuận của các ngân hàng sẽ tiếp tục chịu sức ép lớn do nhu cầu vay vốn sẽ duy trì ở mức thấp và có khả năng biên lợi nhuận ròng trung bình (NIM) của các ngân hàng sẽ giảm.
Sự phục hồi lợi nhuận nhanh hơn dự kiến có thể xảy ra nếu giá bất động sản tăng trở lại hoặc các phân khúc bán lẻ tạo ra nhu cầu vay vốn lớn hơn. Do rất nhiều tài sản rủi ro liên quan đến các bất động sản thế chấp nên sự phục hồi của bất động sản có thể đẩy nhanh việc giải quyết các tài sản rủi ro và vấn đề giới hạn trong trích lập chi phí dự phòng.
Sự tăng trưởng chậm trong việc cho vay ngành bán lẻ cũng gián tiếp gây ra yếu kém trong ngành ngân hàng. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu thụ nội địa yếu kém cũng tiếp tục hạn chế tăng trưởng mạnh trong ngành bán lẻ.
Moody cũng xếp hạng 9 ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam. Theo báo cáo, tổng tài sản tại ngày 30/6 của 9 ngân hàng chiếm 40% tổng tài sản toàn hệ thống. Mức xếp hạng Tín dụng cơ sở trung bình của 9 ngân hàng là CAA1, còn Sức mạnh tài chính độc lập trung bình là E. Trong khi đó, xếp hạng Tín dụng nội tệ được đánh giá ở mức B2, phản ánh đánh giá của Moody về những hỗ trợ của Chính phủ Việt Nam từ thấp đến cao dành cho các Ngân hàng.