Chuyên gia Tài chính - Ngân hàng Nguyễn Trí Hiếu nhận định như vậy với phóng viên Báo Điện tử Tổ Quốc trước việc Chính phủ yêu cầu Ngân hàng Nhà nước xem xét tiếp tục giảm lãi suất.
+ Tại Nghị quyết phiên họp thường kỳ tháng 11/2014, Chính phủ yêu cầu xem xét tiếp tục điều chỉnh giảm mặt bằng lãi suất cho vay. Theo ông, việc tiếp tục giảm lãi suất tại thời điểm này có hợp lý không?
Ông Nguyễn Trí Hiếu: Tôi cho rằng, trong bối cảnh lạm phát ở mức thấp như hiện nay thì việc Chính phủ yêu cầu xem xét giảm lãi suất là hoàn toàn phù hợp.
Hiện mức lãi suất vẫn còn cao. Trừ một số doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) được ưu đãi thì các doanh nghiệp không thuộc diện ưu đãi như doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) vẫn đang phải vay vốn với mức lãi suất khá cao, đáng nói là số DN này lại chiếm tới 90%.
Vì thế, việc giảm lãi suất sẽ giúp các DNVVN "dễ thở" và có cơ hội để thúc đẩy hoạt động kinh doanh tốt hơn, góp phần phát triển nền kinh tế.
Cơ sở để giảm lãi suất đó là lạm phát thấp, 11 tháng mới ở mức 2,9%. Tuy nhiên, mức giảm cũng không nên quá sâu, nếu không sẽ ảnh hưởng đến tỷ giá…

"Tại thời điểm này, yêu cầu xem xét tiếp tục giảm lãi suất là phù hợp nhưng mức giảm phải được cân nhắc vì ảnh hưởng đến tỷ giá…".
+ Căn cứ cho việc hạ lãi suất không thể đơn thuần chỉ là mức lạm phát hiện thời, thưa ông?
Ông Nguyễn Trí Hiếu: Lãi suất và tổng cầu có tác động tương hỗ nhau. Lãi suất giảm sẽ khuyến khích tiêu dùng, bởi người dân sẽ vay tiền ngân hàng nhiều hơn để phục vụ cho cuộc sống (sửa nhà, thẻ tín dụng…). Và khi tiêu dùng tăng thì sẽ kích thích kinh tế phát triển.
Vì thế, khi lạm phát thấp, chúng ta nên hạ lãi suất để tăng tổng cầu.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế đã được kích thích tăng trưởng thì giá hàng hóa cũng sẽ tăng lên, kéo theo lạm phát tăng. Khi đó, Chính phủ qua Ngân hàng Nhà nước sẽ phải tăng lãi suất để giảm lạm phát nhằm tạo sự cân bằng.
Hiện tại, chúng ta hạ lãi suất sẽ rủi ro về lạm phát. Nhưng vấn đề là lượng hàng tồn kho của chúng ta đang rất cao, tổng cầu yếu nên phải kích cầu bằng hạ lãi suất.
Có thể có một số người bảo thủ cho rằng, không nên hạ lãi suất vì sợ rủi ro về lạm phát. Nhưng đối với tôi, giữa "giữ ổn định và phát triển", tôi cho rằng cần phải chọn "phát triển" trong bối cảnh như thế này.
Ở Mỹ, tiêu dùng của người dân chiếm nhiều % trong GDP, trong khi Việt Nam con số này là quá ít. Vì thế, chúng ta cần đẩy mạnh tiêu dùng, tất nhiên phải tiêu dùng hợp lý.
+ Theo ông, việc hạ lãi suất sẽ tác động như thế nào tới các lĩnh vực khác?
Ông Nguyễn Trí Hiếu: Tất cả các thị trường khác đều được hưởng lợi nếu hạ lãi suất, trừ thị trường ngoại hối.
Khi lãi suất hạ, tỷ giá và VN đồng sẽ bị ảnh hưởng.
Hiện tỷ giá liên ngân hàng là 21.246 đồng/USD. Đồng nội tệ mỗi năm trung bình mất giá 4%, trong khi con số này ở USD là 2%. Vậy là giá trị VNĐ so với USD mất giá 2% mỗi năm. Trong năm qua chúng ta mới chỉ điều chỉnh được 1%.
Vậy nên thời gian tới chúng ta cần tiếp tục điều chỉnh để kéo gần khoảng cách giữa VNĐ và USD.
Đặc biệt, cuối năm nhu cầu sử dụng ngoại tệ rất cao nên tôi cho rằng cần phải điều chỉnh tỷ giá phù hợp với thị trường. Nhưng NHNN hiện chưa muốn điều này bởi họ có lượng dự trữ ngoại tệ lớn. Vì thế, trong bối cảnh này, lãi suất giảm sẽ càng tạo áp lực cho tỷ giá.
+ Mục tiêu của Chính phủ là giảm mặt bằng lãi suất cho vay trung và dài hạn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Từ đầu năm tới nay, lãi suất cũng đã giảm nhưng lợi ích mang lại cho sản xuất kinh doanh chưa đáng kể. Vậy theo ông, việc giảm lãi suất cho vay lần này liệu có tác động mạnh tới doanh nghiệp? Và tăng trưởng tín dụng thực chất là gì?
Ông Nguyễn Trí Hiếu: Việc hạ lãi suất từ đầu năm tới nay (2-3%) chỉ tác động tới doanh nghiệp rất ít, hay nói cách khác là chỉ phục vụ một số doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thể tiếp cận được nguồn vốn.
Vì thế, dù lần này chúng ta có giảm thêm lãi suất cũng không phản ánh được gì nhiều. Đây chỉ là một trong những phương án hỗ trợ doanh nghiệp. Tôi đã nhiều lần nói trên báo chí rằng, ngoài phương án hạ lãi suất, Chính phủ cần có thêm những phương án khác nữa, như quỹ bảo lãnh tín dụng chẳng hạn. Quỹ này sẽ hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn một cách hiệu quả trong trường hợp không thể vay vốn từ ngân hàng bởi những điều kiện ràng buộc.
Theo tôi, Quốc hội nên có ngân sách cho quỹ bảo lãnh tín dụng và quỹ này phải tập trung ở Hà Nội và TP.HCM.
Hiện hình thức quỹ này chúng ta cũng đã có nhưng rất nhỏ, nằm rải rác ở các địa phương. Và do sợ mất vốn nên điều kiện cho doanh nghiệp vay còn khó khăn hơn ở ngân hàng.
Ngoài ra, tôi cho rằng, tại thời điểm này không nên bắt buộc chạy theo chỉ tiêu tín dụng mà quan trọng là chất lượng của tín dụng. Tín dụng phải được đổ vào những lĩnh vực cần thiết, đặc biệt là sản xuất kinh doanh…
+ Xin cám ơn ông!