Google lãi ròng gần 9,7 tỷ USD sau 9 tháng

Google lãi ròng gần 9,7 tỷ USD sau 9 tháng

(NDH) Lũy kế 9 tháng đầu năm, Google lãi ròng 9.687 tỷ USD. Kết quả kinh doanh trong quý 4/2014 được kỳ vọng sáng sủa hơn nhờ việc phát hành Android 5.0 Lollipop và các thiết bị Nexus thế hệ mới.

Google vừa mới công bố báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của hãng trong quý 3 năm 2014 tăng trưởng vượt trội với "doanh thu hợp nhất đạt 16,52 tỷ USD, tăng 20% so với cùng kỳ năm ngoái", ông Patrick Pichette, giám đốc tài chính của Google công bố. Trong đó doanh thu từ thị trường quốc tế (bên ngoài nước Mỹ) trong quý 3/ 2014 đạt 9,55 tỷ USD, chiếm 58% tổng doanh thu.

Doanh thu 9 tháng của Google đạt gần 47,9 tỷ USD.

Nếu theo tiêu chuẩn GAAP, lợi nhuận hợp nhất trong quý 3/2014 của Google đạt 2,81 tỷ USD, giảm nhẹ 5% so với con số 2,97 tỷ USD của năm 2013, nếu không theo chuẩn GAAP thì con số này lần lượt là 4,37 tỷ USD so với 3,82 tỷ USD của cùng kỳ 2013. Lũy kế 9 tháng đầu năm, Google lãi ròng 9,687 tỷ USD, tăng nhẹ 1,5% cùng kỳ năm trước.

EPS của Google đạt mức 6,35 USD/cổ phiếu (không tính theo GAAP), cao hơn so với con số EPS 5,63 USD/ cổ phiếu của quý 3 năm 2013. Chỉ số EPS này gần bằng với con số mà các nhà phân tích dự đoán trước đó là 6,53 USD cho mỗi cổ phiếu.

So với cùng kỳ năm ngoái, doanh thu của Google đã tăng từ 13,75 tỷ USD lên 16,52 tỷ USD, tăng 20%. Tổng doanh thu của Google đến từ 3 mảng hoạt động chính: 11,25 tỷ USD đến từ các website, 3,45 tỷ USD đến từ mạng lưới đối tác và số còn lại là 1,84 tỷ đô đến từ các chỉ tiêu khác. Dịch vụ web vẫn là nguồn thu chính của Google với tỷ trọng tới 68% tổng doanh thu. Tiếp đến là doanh thu từ các đối tác cũng chiếm phần không nhỏ với tỷ lệ hơn 20%.

Tổng chi phí hoạt động của Google trong quý 3 chiếm tới 6,1 tỷ USD, chiếm tới 37% doanh thu, tăng 33% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân là do các khoản đầu tư cho máy bay không người lái, vệ tinh và nâng cấp cơ sở hạ tầng trong những tháng vừa qua.

Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh trong quý 3/2014 đạt 5,99 tỷ USD, tăng 18% so với cùng kỳ năm trước. Chi phí vốn đầu tư (CAPEX) đạt 2,41 tỷ USD, trong đó chủ yếu là chi phí xây dựng trung tâm dữ liệu, chi phí mua thiết bị sản xuất và bất động sản. Google kỳ vọng sẽ tiếp tục ghi nhận khoản chi phí vốn đầu tư đáng kể trong thời gian tới.

Một chuyên gia phân tích tại ngân hàng đầu tư Cantor Fitzgerald dự đoán rằng với tỷ lệ chi tiêu hiện tại, chi phí vốn đầu tư của Google có thể lên tới 10 tỷ USD, cao gấp 3 lần con số năm 2012.

Tờ Financial Times dẫn lời của Giám đốc Tài chính của Google, ông Patrick Pichette, lý giải về quyết định gia tăng chi phí vốn đầu tư của công ty. Ông cho biết điều mà Google đã học được từ quá khứ đó là việc đầu tư vào trung tâm dữ liệu (data centre) mới và các hạ tầng khác trước khi thật sự cần đến chúng thì hơn là việc chấp nhận rủi ro hệ thống quá tải khi nhu cầu sử dụng một số sản phẩm tăng lên. Patrick Pichette còn nói thêm rằng thị trường đối với mảng dịch vụ điện toán đám mây cho các doanh nghiệp hiện đang bùng nổ.

Một tín hiệu tốt đối với mảng kinh doanh web của hãng là số lượng click chuột đã tăng 17% so với năm ngoái và tăng 2% so với quý 2/2014. Tuy nhiên, giá trung bình của mỗi click trên Google đã giảm 2% so với năm 2013. Đây cũng là 1 trong những chỉ tiêu kéo lợi nhuận ròng của hãng suy giảm. Trong riêng quý 3/ 2014, lợi nhuận ròng của Google đạt 2.813 tỷ USD, giảm 5,3% so với lợi nhuận cùng kỳ. Lũy kế 9 tháng đầu năm, Google lãi ròng 9.687 tỷ USD.

Theo số liệu từ eMarketer, Google vẫn đang là hãng chủ chốt trong ngành công nghiệp quảng cáo trên di động với hơn 50% thị phần nắm giữ. Các nhà phân tích hy vọng rằng với việc phát hành Android 5.0 Lollipop và các thiết bị Nexus thế hệ mới, Google có thể sẽ có kết quả kinh doanh sáng sủa hơn trong quý cuối cùng của năm 2014.

BCTC quý 3 - Google

GAAP được coi như một khuôn mẫu kế toán tiêu chuẩn nhằm định hướng cho hoạt động kế toán tài chính, được áp dụng nhiều tại các quốc gia như Mỹ, Canada, Anh. GAAP bao gồm các tiêu chuẩn, các quy ước và quy tắc kế toán sử dụng trong ghi chép và tóm tắt các giao dịch hoặc chuẩn bị các báo cáo tài chính.

Các thông tin tài chính kế toán phải được tập hợp và báo cáo một cách khách quan. Bên thứ ba tức là những người cần sử dụng thông tin này có quyền được đảm bảo rằng tất cả các dữ liệu không bị bóp méo hoặc không khớp nhau. Vì thế công tác kế toán tài chính phải dựa trên các tiêu chuẩn nhất định để hướng dẫn, đó chính GAAP.

Các nguyên tắc này đều xuất phát từ thực tiễn. Trong bất cứ báo cáo tài chính nào, người chuẩn bị báo cáo, kế toán viên hay kế toán trưởng cũng đều cần chỉ rõ cho người đọc biết liệu các thông tin trong các bản báo cáo này có tuân theo tiêu chuẩn GAAP hay không. Nội dung của tiêu chuẩn GAAP bao gồm 7 nguyên tắc sau:

Nguyên tắc hợp thức: được định nghĩa là sự tuân thủ các nguyên tắc, điều luật và quy định có tính chất bắt buộc.

Nguyên tắc hoạt động liên tục: Với giả thiết rằng doanh nghiệp sẽ hoạt động trong một thời gian dài nên các tài sản mà doanh nghiệp đang có không cần thiết phải đánh giá theo giá thị trường. Nếu giá thị trường thấp hơn giá vốn thì có thể dùng biện pháp dự phòng để điều chỉnh giá vốn nhưng bản thân tài sản vẫn phải được phản ánh đúng theo giá vốn. Tuy nhiên nếu doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản, phải ngừng hoạt động hoặc phải sáp nhập, giải thể thì giá thị trường lại trở nên cần thiết khi lập các báo cáo tài chính.

Nguyên tắc trung thực : yêu cầu các số liệu kế toán phải được phản ánh một cách trung thực, đúng với tình hình hoạt động kinh doanh của công ty.

Nguyên tắc nhất quán: nguyên tắc này yêu cầu trong công tác kế toán cần phải bảo đảm tính thống nhất về mặt nguyên tắc, về chuẩn mực, về phương pháp tính giữa các kì kế toán. Khi có lý do chính đáng để thay đổi cách tính toán thì cần thông báo cho người nhận và người đọc báo cáo biết.

Nguyên tắc không bù trừ: nguyên tắc này yêu cầu không được bù trừ giữa nợ và tài sản, giữa doanh thu và chi phí. Các khoản mục phải được hạch toán một cách rõ ràng, riêng biệt.

Nguyên tắc thận trọng: đặt ra yêu cầu khi đứng trước hai phương án để hạch toán thì nên chọn phương án nào ít nhất hoặc không thổi phồng tài sản hay thu nhập của doanh nghiệp. Nói cách khác, với nguyên tắc này thì kế toán có thể ghi nhận khoản lỗ nếu có những chứng cứ có thể xác nhận được, ngược lại chỉ được ghi nhận một khoản lãi khi thực tế nó đã phát sinh.

Nguyên tắc định kì: Việc ghi chép các số liệu kế toán phải được phân bổ trong một khoảng thời gian định sẵn, có thể phân thành các giai đoạn tuỳ theo thời gian phát sinh số liệu. Nếu một khách hàng thanh toán tiền trước (vd tiền thuê máy trong 10 năm) thì doanh thu phải được phân chia và ghi nhận theo từng kì, không ghi nhận toàn bộ doanh thu vào ngay ngày phát sinh giao dịch.